– Hiện nay, Việt Nam đang thiếu các doanh nghiệp sản xuất có tính hiệu quả kinh tế nhờ lợi thế về quy mô để tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu. Doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu hợp tác với các doanh nghiệp FDI ở khâu sản xuất và marketing bán hàng, còn việc phát tri n sản phẩm mới hầu như không có. Hơn nữa, sự gắn kết giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI còn rời rạc. Các doanh nghiệp FDI chỉ mua một phần nhỏ khoảng 26,6% tổng giá trị đầu vào tại Việt Nam nhưng trong đó chủ yếu là mua từ các doanh nghiệp FDI khác
.
– Việt Nam là một nước đi sau so với các nước EU cũng như các nước khác trên thế giới nên nền sản xuất công nghiệp của nước ta còn nhiều hạn chế và bất cập. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chưa thực sự phát triển, mức độ cạnh tranh của các mặt hàng nói chung còn thấp, đặc biệt là các ngành có thế mạnh của nước ta như dệt may, da giày,.
– Thuận lợi của Việt Nam về nguồn nhân lực là nguồn lao động trẻ, dồi dào. Tuy nhiên, trong các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, các doanh nghiệp thiếu vắng nguồn nhân lực có trình độ và kỹ năng chuyên môn. Sở dĩ điều này do chương trình đào tạo tại các trường lạc hậu, không có cải cách theo hướng gắn sâu với thực tiễn sản xuất. Do vậy, khả năng tiếp thu của người lao động về các kỹ năng, kỹ thuật, công nghệ chưa tốt, còn nhiều hạn chế.
– Các thủ tục hành chính và sự gây phiền hà, thiếu trách nhiệm của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức đã làm tăng rào cản của thể chế. Đối với doanh nghiệp, các thể chế được xây dựng và đưa vào thực thi còn chậm. Thể chế cho khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa phù hợp với yêu cầu phát tri n của doanh nghiệp, xuất hiện những quan hệ không lành mạnh giữa các doanh nghiệp tư nhân và cơ quan quản lý nhà nước để hình thành nên những nhóm lợi ích gây ảnh hưởng không tốt đến kinh tế xã hội.
– Việc đầu tư, ứng dụng khoa học, công nghệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh còn hạn chế. Do vậy, sau hơn 30 năm đổi mới, nền công nghiệp nước ta vẫn ở trình độ gia công là chính.
– Nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của các ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam đó là bên cạnh việc thiếu vốn và công nghệ, chưa có sự đầu tư nhiều từ nhà nước… thì còn có một vấn đề khác do nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam đã quen thuộc với cách thức tổ chức sản xuất trong đó tất cả các giai đoạn của quá trình sản xuất sản phẩm đều được thực hiện theo một chu trình khép kín tại doanh nghiêp, các doanh nghiệp đều muốn tạo dựng sản phẩm có thương hiệu riêng trong khi năng lực cạnh tranh của họ kém thể hiện ở giá thành sản phẩm cao vì phải nhập khẩu các phụ tùng và linh kiện, nguyên phụ liệu. Bởi vậy, cần thay đổi tư duy và nhận thức về vai trò quan trọng của các ngành công nghiệp phụ trợ.
– Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc thực hiện đầu tư công vào hệ thống giao thông nhưng hạ tầng giao thông, hệ thống cảng biển, các loại hình phương tiện vận chuyển có liên quan phục vụ cho hoạt động thương mại chưa đồng bộ, chủ yếu tập trung vào hệ thống đường bộ hơn các hình thức vận tải khác. Do đó, hệ thống giao thông chưa theo kịp tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và lưu lượng hàng hóa đang ngày càng tăng.
Để lại một bình luận