Nợ phải trả là các khoản tín dụng doanh nghiệp huy động từ các chủ thể trong nền kinh tế và cam kết thanh toán nợ gốc, chi phí sử dụng nợ theo thời gian quy định. Các hình thức biểu hiện của nợ phải trả là vốn vay, mượn từ bên ngoài hoặc thông qua việc phát hành chứng khoán nợ. Căn cứ theo thời gian, nợ phải trả bao gồm NNH và NDH (Bộ Tài chính, 2006).
NNH là các khoản nợ mà doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán trong vòng một năm, áp lực trả nợ cao. Tuy nhiên, đây là nguồn vốn có chi phí thấp và thường được sử dụng để tài trợ cho các tài sản ngắn hạn (TSNH). NNH bao gồm các khoản vay ngắn hạn, các khoản phải trả thương mại và phải trả ngắn hạn khác.
NDH là những khoản nợ mà doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán trong thời gian lớn hơn một năm hoặc hơn một chu kỳ kinh doanh, tính ổn định của nguồn vốn tương đối cao. Tuy nhiên NDH, chi phí lớn và thường được sử dụng để tài trợ cho TSDH hoặc một phần TSNH. NDH bao gồm vay NDH, các khoản phải trả thương mại dài hạn và phải trả dài hạn khác.
Đối với doanh nghiệp, một trong những ưu điểm của việc tài trợ bằng nợ phải trả (nợ phát sinh chi phí lãi) là chi phí lãi vay tạo ra lợi ích từ tấm chắn thuế cho doanh nghiệp. Ngoài ra, việc sử dụng nợ giúp nhà quản trị thận trọng hơn trong việc đầu tư, tránh đầu tư vào những dự án không hiệu quả. Ngược lại, nhược điểm của việc tăng tỷ trọng nợ là doanh nghiệp chịu sự giám sát, quản lý tăng cường của các nhà đầu tư, chủ thể cho vay và thị trường. Doanh nghiệp mất dần tính tự chủ về tài chính cũng như điều hành. Mặt khác, áp lực trả nợ có thể dẫn đến kiệt quệ tài chính và mất thanh khoản.
VCSH là nguồn vốn do chủ sở hữu góp vào doanh nghiệp và doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán, nhưng họ kỳ vọng mang lại lợi ích từ hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. VCSH bao gồm phần sở hữu của cổ đông thiểu số, vốn góp, các khoản dự trữ và lợi nhuận chưa phân phối (Bộ Tài chính, 2006).
Đối với doanh nghiệp, việc tài trợ bằng VCSH có tính ổn định và tự chủ cao. Vì vậy, sẽ giúp doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro hơn so với việc tài trợ bằng nợ vay. Tuy nhiên, việc sử dụng nhiều nguồn vốn này làm tăng chi phí sử dụng vốn do không được hưởng lợi ích từ tấm chắn thuế. Mặt khác, khi giá trị VCSH tăng đồng nghĩa với số lượng cổ đông nhiều, áp lực về sự quản lý điều hành, giám sát hoạt động của doanh nghiệp càng lớn.
Ngoài ra, nguồn vốn còn được tiếp cận theo thời hạn hoàn trả, bao gồm NVNH và NVDH. Sự khác biệt giữa NVNH và NVDH được trình bày trong Bảng
Như vậy, mỗi nguồn vốn đều có những ưu điểm và khuyết điểm. Nếu các nhà quản trị có thể nhận thức tốt những vấn đề này và chú trọng đến những đặc điểm của từng giai đoạn phát triển kinh tế thì sẽ lựa chọn được nguồn vốn phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Để lại một bình luận