“Nông thôn mới (NTM) là tổng thể những đặc điểm, cấu trúc tạo thành một kiểu tổ chức NT theo tiêu chí mới, đáp ứng yêu cầu mới đặt ra cho NT trong điều kiện hiện nay, là kiểu NT được xây dựng so với mô hình NT cũ ở tính tiên tiến về mọi mặt. NTM là NT văn minh, hiện đại nhưng vẫn giữ nét đẹp của truyền thống Việt Nam”[45].
Xây dựng nông thôn mới (XDNTM) hay phát triển NT là một tổ hợp các hoạt động đa dạng, có sự tham gia của cá nhân, nhóm, tổ chức, đảm bảo sự phát triển cho cộng đồng nông thôn. XDNTM là quá trình xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường nông thôn nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của cư dân nông thôn, phát triển hài hòa, rút ngắn khoảng cách giữa thành thị với nông thôn. Quá trình XDNTM do người dân địa phương giữ vai trò chủ thể và có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước.
Trên thế giới, đầu tiên, khái niệm phát triển NT gắn liền với khái niệm phát triển NN, tức là chiến lược nhằm tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên để tăng sản lượng và khả năng tiếp thị. Chiến lược này đạt tới sự thoả mãn và lạc quan cao sau cuộc cách mạng Xanh, giải quyết căn bản vấn đề an ninh lương thực ở nhiều quốc gia. Phương pháp phát triển NT trong thập kỷ 1960 đồng nghĩa với hiện đại hoá sản xuất và đời sống cho cư dân NT. Sang thập kỷ 1970, các phương pháp phát triển NT dựa vào sự can thiệp và chỉ đạo của Nhà nước. Thập kỷ 1980 là làn sóng tự do hoá thương mại của Đồng thuận Washington với các giải pháp của chính sách thị trường. Sau đó Ngân hàng Thế giới và UNDP đưa ra “chiến lược phát triển NTM”, chiến lược nhằm cải thiện đời sống KT-XH của người dân nghèo ở NT, phát triển NT là việc cải thiện mức sống của một số đông người có mức thu nhập thấp đang sinh sống ở vùng NT nhằm tạo nên tiến trình phát triển NT một cách tự giác và ổn định. Nội dung của hoạt động phát triển NT trở thành chương trình phát triển tổng hợp nhắm vào các hoạt động xóa đói giảm nghèo, vào giảm chênh lệch thu nhập và tạo thêm việc làm… [2]. Phát triển NT vì vậy, bao gồm cả sự biến đổi trong xã hội NT trong đó có các hoạt động của chính phủ. Từ sản xuất NN hoạt động phát triển NT tiến sang cả giáo dục, y tế, và dịch vụ xã hội. Thập kỷ 1990 đánh dấu bằng sự đề cao các phương pháp huy động ND tham gia và tăng cường năng lực cho cư dân địa phương. Sự thay đổi của hệ thống NN bao gồm cả khía cạnh kỹ thuật, môi trường, kinh tế, xã hội hay phát triển NT bao hàm các nội dung: Sự phát triển tổng hợp của vùng; Sự phát triển cuộc sống của cư dân NT; Tăng sản lượng và thu nhập theo đầu người; Tăng việc làm, thu hẹp chênh lệch thu nhập giữa thành thị với NT; Tạo ra tự chủ và tự lực đổi mới kinh tế, xã hội NT; Đô thị hoá NT, thị dân hoá ND; xây dựng NT, NN đa chức năng; Công nghiệp, hiện đại hoá NN, NT.
Một vấn đề khác là động lực để phát triển NT, hay nói cách khác, ai là người tổ chức chỉ đạo quá trình phát triển NT? Nhiều tác giả nhấn mạnh đến khía cạnh xã hội và thể chế của vấn đề này. Yếu tố cơ bản của phát triển NT là nâng cao mức sống người nghèo bằng cách khai thác tốt hơn các nguồn tài nguyên tự nhiên và con người của họ … và là sự tham gia tích cực của họ để xây dựng nên các định chế tổ chức và hoạt động của các bộ máy này, sự thay đổi thực chất phải bắt nguồn từ trong thôn xã, từ những người sống tại NT. Đây là quá trình tự phát triển và tự lập. Tác động bên ngoài chỉ nhằm hướng dẫn, giúp đỡ, tạo nên tia lửa khởi động ban đầu. Sự thành bại là tùy thuộc ở khả năng vươn lên, lòng tự tin và khả năng hợp tác lẫn nhau của ND[128].
Ở Việt Nam, trên giác độ chính sách, cho đến năm 2007, vẫn chưa có chính sách cụ thể đối với NT. Chính sách phát triển NT nằm trong khuôn khổ chính sách NN. Khái niệm “phát triển NT” xuất hiện trong lĩnh vực chính sách của Việt Nam sau năm 2007, khi vấn đề công bằng nổi lên là một vấn đề then chốt trong nước[118]. Nghị quyết số 26 năm 2008 – Nghị quyết “Tam Nông” của Đảng đã xây dựng phương pháp tiếp cận ba trụ cột, kết hợp NT, NN và ND. Nghị quyết này thể hiện chủ trương của Đảng về sự phát triển NT theo định hướng người dân, đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao thu nhập của ND. Để thực hiện Nghị Quyết này, Chính Phủ đã quyết định thực hiện CTMTQG XDNTM, được đánh giá là một chiến lược phát triển NT toàn diện, vượt xa các mục tiêu NN cổ điển. Chương trình này dựa trên: (i) huy động và sự tham gia của người dân địa phương; (ii) thực tế NN không còn là hoạt động duy nhất ở NT và (iii) một tầm nhìn bền vững về phát triển, gồm cả các khía cạnh KT-XH và môi trường.
XDNTM không phải chỉ dựa vào hỗ trợ, trợ cấp, mà là một chương trình phát triển NT bền vững, đó là: (i) xem xét phát triển NT thông qua phương pháp tiếp cận đa ngành để đa dạng hóa nguồn thu nhập và tăng thu nhập NT nói chung; (ii) huy động dân cư NT trong việc xây dựng CSHT (trường học, trung tâm y tế, vệ sinh, đường xá, thủy lợi …) thông qua sự tham gia hiệu quả vào quá trình ra quyết định;
(iii) thực hiện tiếp cận đa chiều để giảm nghèo. Cách tiếp cận mới hỗ trợ tái cấu trúc nền kinh tế với tầm nhìn chiến lược và kế hoạch ở cấp xã và thôn và hỗ trợ các sáng kiến địa phương thông qua các khoản đầu tư công.
Trên giác độ tổng quan, NTM ở nước ta hiện nay, bao gồm năm nội dung cơ bản: “Thứ nhất, đó là làng xã văn minh, sạch đẹp, có hạ tầng hiện đại; Thứ hai, sản xuất phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa; Thứ ba, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ở NT ngày càng được nâng cao; Thứ tư, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát triển; Thứ năm, xã hội NT có an ninh tốt, được quản lý dân chủ”[100]. Năm nội dung này được cụ thể hóa bằng 19 tiêu chí nông thôn mới.
Đảm bảo phát triển NT bền vững. XDNTM “bao gồm tất cả các vấn đề gắn với đời sống của người dân và môi trường, không gian sống ở khu vực NT (giáo dục, y tế, nhà cửa, dịch vụ công cộng và cơ sở vật chất, năng lực lãnh đạo, quản lý, bảo tồn phát huy giá trị di sản…)”[100]; các vấn đề phát triển kinh tế NN theo hướng bền vững, hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại; bảo tồn các giá trị truyền thống; môi trường được gìn giữ và tái tạo. “Là một quá trình ổn định và bền vững với những thay đổi về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường hướng tới hiện đại và sự thịnh vượng lâu dài của cả cộng đồng”.
“Gắn với các quy hoạch, kế hoạch, mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH), đảm bảo an ninh quốc phòng của mỗi địa phương (xã, huyện, tỉnh); có quy hoạch và chính sách đảm bảo cho phát triển theo quy hoạch (trên cơ sở các tiêu chuẩn kinh tế, kỹ thuật do các Bộ chuyên ngành ban hành)”. XDNTM phải hướng tới mục tiêu phát triển KT – XH địa phương và đây là nội dung trọng yếu của chiến lược phát triển KT – XH của địa phương
-“Kế thừa và lồng ghép các CTMTQG, chương trình hỗ trợ có mục tiêu, các chương trình, dự án khác đang triển khai ở NT, có bổ sung dự án hỗ trợ đối với các lĩnh vực cần thiết; có chính sách khuyến khích mạnh mẽ đầu tư của các thành phần kinh tế; huy động đóng góp của các tầng lớp dân cư”.
Như vậy, XDNTM chính là thực hiện chương trình phát triển toàn diện, bền vững NN, ND, NT nhằm nâng cao đời sống người dân và sự ổn định xã hội. Mục tiêu trọng tâm là nâng cao được đời sống dân cư tại cộng đồng và xây dựng một xã hội NT năng động, văn hoá hiện đại nhưng vẫn bảo tồn được các giá trị văn hoá truyền thống, đồng thời, ở đó môi trường được bảo vệ và ngày càng được tôn tạo.
Mục đích xây dựng NTM bao gồm: Phát triển và hiện đại hóa nông nghiệp để đảm bảo an ninh lương thực; Tập trung vào đào tạo nhân lực nông thôn, dịch chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, tạo việc làm, và tăng thu nhập cho người dân nông thôn; Nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần, nhất là người dân sống ở các vùng đặc biệt khó khăn; Phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn; Bảo vệ môi trường, và bảo tồn văn hóa; Cải thiện điều kiện học tập, điều trị y tế, hoạt động văn hóa và thể thao; Và tăng cường năng lực phòng chống và giảm nhẹ thiện tai, bao gồm cả việc thực hiện các biện pháp để thích ứng và đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, nhất là nước biển dâng.
Xây dựng NTM bao gồm tất cả các vấn đề gắn với đời sống của người dân và môi trường, không gian sống ở khu vực nông thôn; là một quá trình đa chiều hướng tới hội nhập bền vững trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội; là một quá trình ổn định và bền vững hướng tới hiện đại và sự thịnh vượng lâu dài của cả cộng đồng[100]. Chương trình xây dựng NTM gồm 5 nhóm với 19 tiêu chí[70].
Kết quả của XDNTM có thể phân chia thành hàng hóa công cộng (HHCC) và hàng hóa cá nhân (HHCN). Kết quả của quá trình XDNTM được phân loại là HHCC bao gồm: (i) Quy hoạch; (ii) Hạ tầng kinh tế xã hội; (iii) Văn hóa, xã hội, môi trường; (iv) Hệ thống chính trị. Kết quả của XDNTM là các HHCN gồm các nội dung: Hạ tầng kinh tế xã hội (tiêu chí Nhà ở) và Kinh tế và tổ chức sản xuất (các tiêu chí Thu nhập, Hộ nghèo, Cơ cấu lao động và Hình thức tổ chức sản xuất) (Phụ lục 1). HHCC là những hàng hóa có 2 thuộc tính: không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng (tiêu dùng của một cá nhân không ảnh hưởng đến người khác) và không có tính loại trừ người sử dụng (tất cả người sử dụng đều có quyền sử dụng ngang nhau).
Dựa vào thuộc tính này, HHCC được phân chia thành 2 loại: HHCC thuần túy (đầy đủ cả 2 thuộc tính) và HHCC không thuần túy (chỉ có 1 trong hai thuộc tính ở những mức độ khác nhau). HHCC không thuần túy cũng có thể chia làm 2 loại: HHCC không thuần túy có thể loại trừ bằng giá và HHCC không thuần túy có tính giới hạn[115]. Về cung cấp HHCC thuần túy, theo Joseph E.Stiglitz (1980),“Khi có thêm một người sử dụng hàng hóa mà chi phí cận biên không tăng lên thi hàng hóa đó không cần phân bố theo khấu phần. Nhưng nếu hàng hóa đó lại do một hãng tư nhân cung cấp, thì hãng đó phải thu tiền sử dụng, và việc phải trả tiền đó làm cho người ta ít sử dụng hàng hóa này”[24]. Như vậy, theo nguyên tắc chung, muốn nâng cao hiệu quả sản xuất và cung ứng HHCC thuần túy, tốt nhất do khu vực công đảm nhận (tất nhiên không nhất thiết Nhà nước phải đứng ra trực tiếp sản xuất mà có thể tài trợ cho khu vực tư nhân). Đối với HHCC không thuần túy, tùy thuộc vào thuộc tính và số lượng người sử dụng, Nhà nước có thể cung cấp một phần hoặc người sử dụng đóng góp hoàn toàn.
Như vậy, kết quả của XDNTM là HHCC đã chiếm 15/19 tiêu chí NTM bao gồm cả HHCC thuần túy và HHCC không thuần túy, đòi hỏi có sự tham gia đầu tư của Nhà nước trong những mức độ khác nhau
Theo kinh tế học công cộng, thì tốt nhất NSNN nên bảo đảm nguồn lực tài chính cho các hoạt động mà kết quả của nó sẽ tạo ra các HHCC thuần túy; còn nguồn tài chính bảo đảm cho sản xuất và cung ứng các HHCC không thuần túy có thể huy động 100% từ khu vực tư nhân hoặc kết hợp giữa nhân dân và Nhà nước cùng làm. Vì vậy, tổng chi phí cho xây dựng NTM được xác định như sau:
TCNTM = CFHHCC + CFHHCN
Trong đó:
TCNTM: Tổng chi phí một xã đạt xã NTM
CFHHCC: Chi phí sản xuất các HHCC là mục tiêu kỳ vọng của xây dựng NTM CFHHCN Chi phí sản xuất các hàng hóa cá nhân liên quan đến xây dựng NTM
HHCC tạo ra trong xây dựng NTM bao gồm cả HHCC thuần túy và HHCC không thuần túy nên chi phí được xác định như sau:
CFHHCC = CFHHCCTT + CFHHCC không TT
Trong đó:
CFHHCCTT: Chi phí sản xuất các HHCC thuần túy
CFHHCNkhôngTT: Chi phí sản xuất các HHCC không thuần túy
Như vậy, NSNN chi cho xây dựng NTM phải đáp ứng chi phí để sản xuất HHCC thuần túy và hỗ trợ một phần để sản xuất HHCC không thuần túy. Các nguồn lực tài chính khác từ khu vực tư sẽ tài trợ phần chi phí sản xuất HHCC không thuần túy còn lại và chi phí sản xuất các hàng hóa cá nhân khác liên quan đến xây dựng NTM
Để lại một bình luận